Ngày 12/11/2024, UBND xã Duy Tân phối hợp với Sở khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Nam, trung tâm khoa học và đổi mới sáng tạo tổ hức tập huấn thực hiện mô hình ứng dụng Công nghệ sinh học cho 80 cán bộ hội viên nông dân, phụ nữ trên địa bàn 04 thôn. Lớp tập huấn được nghe bà: Mai Thị Thúy Hồng trung tâm khoa học và đổi mới sáng tạo tỉnh Quảng Nam truyền đạt trong Công nghệ sinh học. Qua lớp tập huấn đã giúp cho cán bộ hội viên nông dân, phụ nữ nắm rỏ về quy trình tái chế chất thải hữu cơ, phụ phẩm nông nghiệp tạo nguồn phân bón sạch tại chổ cho cây trồng, giúp cải tạo chất lượng đất, giảm chi phí sản xuất nông nghiệp, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và các dịch bệnh từ rác thải gây ra, tạo cảnh quan môi trường xanh-sạch-đẹp góp phần từng bước phát triển nông nghiệp bền vững, giảm phát sinh khí nhà kĩnh của ngành nông nghiệp. trung tâm khoa học và đổi mới sáng tạo đã bán hỗ trợ 320 kg phân vi sinh ta mít a cho cán bộ hội viên nông dân, phụ nữ tham gia lớp tập huấn.
HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT ỨNG DỤNG CHẾ PHẨM VI SINH TAMIC TRONG XỬ LÝ CHẤT THẢI HỮU CƠ, PHỤ PHẨM NÔNG NGHIỆP Ủ PHÂN HỮU CƠ VI SINH
1.1. Sản phẩm phân bón hữu cơ
Phân bón hữu cơ bao gồm hai nhóm: phân bón hữu cơ truyền thống và phân bón hữu cơ công nghiệp. Phân bón hữu cơ truyền thống là loại phân bón có nguồn gốc từ chất thải của động vật hoặc phế phụ phẩm trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông lâm thủy sản, phân xanh, rác thải hữu cơ, các loại than bùn được chế biến theo phương pháp ủ truyền thống. Trong nhóm này có thể chia thành 5 nhóm nhỏ là: phân chuồng, phân rác, than bùn, phân xanh và phân hữu cơ khác. Phân bón hữu cơ công nghiệp là loại phân bón được chế biến từ các nguồn hữu cơ khác nhau để tạo thành phân bón tốt hơn so với nguyên liệu thô ban đầu. Hiện nay, phân bón hữu cơ công nghiệp chia thành các loại sau: phân hữu cơ, phân hữu cơ khoáng, phân hữu cơ sinh học và phân hữu cơ vi sinh.
1.2 .Sản xuất phân bón hữu cơ
a) Phương thức sản xuất
Ở Việt Nam phân bón hữu cơ hiện nay được sản xuất trong nước theo hai phương thức là ủ truyền thống và sản xuất công nghiệp. Phương thức ủ truyền thống được sử dụng chủ yếu ở quy mô nông hộ dựa trên nguồn nguyên liệu là chất thải hay các phế phụ phẩm cây trồng thu gom từ chăn nuôi và trồng trọt tại nông hộ. Các phế phụ phẩm hữu cơ được trộn đều, đồng thời có thể bổ sung thêm các nguyên tố khoáng và chế phẩm vi sinh vật sau đó ủ thành đống với mục đích duy trì nhiệt độ hình thành trong đống ủ để thúc đẩy quá trình phân hủy chất hữu cơ, đẩy nhanh quá trình khoáng hóa và tiêu diệt các sinh vật gây bệnh cho người, vật nuôi, cây trồng. Hiện nay có nhiều phương pháp ủ khác nhau như ủ nóng, ủ nguội, ủ hỗn hợp nóng trước nguội sau hay các phương pháp ủ tiến tiến sử dụng chế phẩm EM, ủ nhanh bằng giun, v.v. Thời
gian và phương pháp ủ phân ảnh hưởng đến thành phần và hoạt động của vi sinh vật phân hủy và chuyển hóa chất hữu cơ thành mùn, qua đó ảnh hưởng đến chất lượng và
khối lượng phân hữu cơ ủ. Việc sản xuất chăn nuôi tập trung, cơ giới hóa trong trồng trọt kéo theo lượng trâu bò nuôi nhỏ lẻ tại các nông hộ đã làm giảm đáng kể lượng phân hữu cơ sản xuất theo phương pháp ủ truyền thống và thay vào đó, lượng phân hữu cơ được sản xuất công nghiệp có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây.
Phương thức sản xuất công nghiệp áp dụng tại các cơ sở sản xuất phân bón được đầu tư cơ sở hạ tầng, dây chuyền máy thiết bị với quy mô công suất lớn nhỏ khác nhau
(từ 20.000 đến 500.000 tấn).
b) Năng lực sản xuất phân bón hữu cơ công nghiệp
Hiện nay, cả nước có 180 doanh nghiệp đã được cấp Giấy phép sản xuất phân bón hữu cơ, chiếm 24,5% so với tổng số Giấy phép sản xuất mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công thương đã cấp (735 Giấy phép). Tổng công suất của các cơ sở sản xuất phân bón hữu cơ là 2,5 triệu tấn/năm, chiếm 8,5% so với tổng công suất các cơ sở sản xuất phân bón trong nước (29,5 triệu tấn/năm) và bằng gần 1/10 so với công suất sản xuất phân bón vô cơ (26,7 triệu tấn/năm)
c) Công nghệ sản xuất
Nhìn chung, các cơ sở sản xuất phân bón hữu cơ công nghiệp trong nước hiện nay đầu tư trang bị công nghệ sản xuất đơn giản hơn, mức đầu tư thấp hơn so với các công nghệ của các cơ sở sản xuất phân bón vô cơ với công suất tương đương. Dây chuyền máy thiết bị sản xuất phân hữu cơ cơ bản bao gồm máy xúc; máy đảo trộn; máy nghiền, sàng; hệ thống sấy; hệ thống bơm phụ gia, phun vi sinh; hệ thống cân và đóng gói thành phẩm. Phần lớn dây chuyền máy thiết bị được tạo ra trong nước. Một số cơ sở sản xuất phân hữu cơ từ rác thải, chất thải chăn nuôi, phụ phẩm cây trồng đã đầu tư lắp đặt các dây chuyền thiết bị tiên tiến từ các nước phát triển Đức, Bỉ, Hà Lan, Nhật Bản .v.v như nhà máy sản xuất phân bón hữu cơ của Công ty TNHH Nông nghiệp công nghệ cao Dabaco, Công ty CP Môi trường và Công trình đô thị Hà Tĩnh, Công ty Cổ phần Nước – Môi trường Bình Dương v.v. Các công nghệ sản xuất tiên tiến cho phép rút ngắn thời gian ủ/xử lý nguyên liệu đầu vào qua việc điều chỉnh chính xác nhiệt độ, độ ẩm, pH trong các thiết bị xử lý kết hợp sử dụng các chủng vi sinh vật chức năng tạo ra các sản phẩm phân bón hữu cơ chất lượng cao. Ngoài ra việc cơ giới hóa, tự động hóa các quá trình thu gom, xử lý, cung cấp, nghiền, sàng gnuyên liệu; quá trình sấy, tạo hạt, đóng bao trong các dây chuyền sản xuất hiện đại cho phép nâng cao năng suất lao động, công suất sản xuất, giảm giá thành sản phẩm.
d) Nguyên liệu sản xuất Các nguồn nguyên liệu để sản xuất phân bón hữu cơ ở Việt Nam hiện nay rất đa dạng, phong phú bao gồm chất thải từ chăn nuôi, thủy sản, chế biến nông sản, phụ phẩm cây trồng, than bùn, rác thải sinh hoạt và các chế phẩm vi sinh, các nguyên tố khoáng, chất sinh học bổ sung để nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng phân bón. Chất thải chăn nuôi: Tính đến tháng 4 năm 2017 tổng đàn gia súc, gia cầm tập trung của Việt Nam có 2.519.411 con trâu; 5.496.557 con bò; 28.312.083 con lợn và 341.892.000 con gia cầm và ước tính thải ra khoảng 85 triệu tấn chất thải rắn (trâu: 13 triệu tấn, bò: 20 triệu tấn, lợn: 26 triệu tấn, gia cầm: 26 triệu tấn), trong đó mới có 20% chất thải được khai thác sử dụng hiệu quả vào các mục đích khác nhau như làm khí sinh học, phân bón, thức ăn cho cá…Chất thải chăn nuôi có hàm lượng chất hữu cơ, các nguyên tố khoáng đa lượng khá cao và có cả các chất dinh dưỡng trung vi lượng giúp độ phì nhiêu đất. Như vậy 80% chất thải chưa được sử dụng hiệu quả là nguồn nguyên liệu có giá trị tiềm năng rất lớn để sản xuất phân hữu cơ nếu được quản lý, sử dụng hiệu quả. Phụ phẩm trồng trọt: Khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn nguyên liệu từ rơm rạ, thân lá ngô, đậu tương, phụ phẩm nhà máy đường, .v.v. để bón lại cho đất theo nguyên lý “cây trồng hút gì phải trả lại cho đất đúng thứ đó cả về lượng và chủng loại”. nếu tái sử dụng phụ phẩm bón cho đúng cây trồng đó thì chúng ta có thể tiết kiệm ít nhất là 15-20% phân bón, trong khi chúng ta đang đốt bỏ khoảng 40 triệu tấn rơm rạ, chứa khoảng 100.000 tấn N và 50.000 tấn P2O5, tương đương với trên 230.000 tấn urê. Đó là chưa kể 300 – 400 nghìn tấn K2O, một lượng SiO2 cao hơn nhiều và nhiều nguyên tố trung vi lượng khác. Chất thải từ công nghiệp chế biến nông sản thực vật, động vật: Chất thải công nghiệp chế biến là nguồn cung cấp nguyên liệu rất lớn cho các nhà máy sản xuất phân bón hữu cơ. Chỉ tính riêng lượng bả cà phê do 2 nhà máy Vina Café và Nestle Café thải ra hàng năm xấp xỉ 100.000 tấn. Ngoài ra, bã dong giềng, bã mía, bã khoai mì, xương động vật, bã tôm, cua, ghẹ, phụ phẩm các nhà máy chế biến thủy hải sản, .v.v. là các nguồn nguyên liệu hữu cơ có hàm lượng chất dinh dưỡng và lượng mùn khá cao cho sản xuất phân bón hữu cơ. Than bùn và các nguồn nguyên liệu tự nhiên: Việt Nam có khoảng 7,1 tỉ m3 than bùn, các mỏ tập trung nhiều ở Đồng bằng sông Cửu Long với chất lượng tính trung bình: C:17,29%; N:1,2%; P2O5: 0,16%; K2): 0,3%; pH:4,5; độ ẩm 12,8% (Nguyễn Sĩ Quý và Nguyễn Đông Hưng). Đây là nguồn nguyên liệu cung cấp chất hữu cơ rất lớn để sản xuất phân hữu cơ. Ngoài ra, rong biển quanh bờ biển Việt Nam là nguồn nguyên liệu giàu kali, chất dinh dưỡng vi lượng hay quặng photphorit có nhiều ở các tỉnh phía Bắc như Thanh Hóa, Hòa Bình, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Cao Bằng là nguồn nguyên liệu bổ sung lân và các nguyên tố dinh dưỡng trung lượng trong quá trình sản xuất phân hữu cơ. Nguồn rác thải sinh hoạt: Phụ phẩm hữu cơ từ sinh hoạt các hộ gia đình, mùn rác, rác thải thành phố.v.v. Luợng rác sinh hoạt khổng lồ thải ra hàng ngày được thu gom, phân loại tại các nhà máy sử lý rác trên các tỉnh, thành phố của Việt Nam, đây là nguồn nguyên liệu rất phong phú để sản xuất phân hữu cơ nếu đầu tư công nghệ thích hợp. Như vậy có thể thấy, ở nước ta có điều kiện rất thuận lợi để sản xuất phân bón hữu cơ, đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì, bảo vệ độ phì nhiêu cũng như sức sản xuất của đất, góp phần quan trọng cho việc phát triển nông nghiệp ổn định và theo hướng canh tác hữu cơ. Ngoài ra sử dụng phân hữu cơ cũng góp phần giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên có sự mất cân đối khá lớn giửa năng lực sản xuất và số lượgn sản phẩm phân hữu cơ so với phân bón vô cơ (chỉ bằng 1/10 về công suất và 1/19 số lượng sản phẩm). Do vậy cần phải có giải pháp kịp thời.
3. Thực trạng về sử dụng phân bón hữu cơ: Người Việt Nam đã sử dụng phân chuồng từ xa xưa cùng với nần văn minh lúa nước. Đặc biệt, vị trí của bèo hoa dâu sử dụng làm phân bón hữu cơ đạ được xác định từ thế kỷ 19. Đến nay vẫn chưa rõ công nghệ làm phân ủ (compost) để bón cho ruộng xuất hiện lần đầu ở Việt Nam từ khi nào nhưng đến đầu thế kỷ 20, người ta đã biết sử dụng phân hoai để bón cho chè, có nghĩa là đã qua quá trình ủ. Bên cạnh đó, đã có nhiều phong trào cổ vũ người nông dân sản xuất và sử dụ ng phân hữu cơ như “Phong trào sạch làng tốt ruộng”, “Phong trào rừng điền thanh – biển bèo dâu – đồi cốt khí”, phong trào chuồng lợn 2 bậc,.v.v. Vào những năm của thập kỷ 60 đến thế kỷ 20, do nguồn phân khoáng có hạn nên sử dụng phân chuồng bình quân hơn 6 tấn/ha/vụ. Trong giai đoạn 15 năm (1980-1995) việc sản xuất và sử dụng phân hữu cơ có giảm sút, nhưng từ năm 1995 lại đây do yêu cầu thâm canh, do sự khuyến khích sản xuất, sử dụng đã tăng lên đáng kể. Kết quả điều tra của Viện Thổ nhưỡng – Nông hóa cho thấy bình quân mỗi vụ cây trồng bón khoảng 8-9 tấn/ha/vụ, ước tính toàn quốc sản xuất, sử dụng khoảng 65-100 triệu tấn phân hữu cơ/năm. Thực tế hiện nay cho thấy do những đặc điểm như gọn nhẹ, tác động nhanh mà phân bón vô cơ được người nông dân ưa chuộng sử dụng trên đồng ruộng bất chấp những tác hại mà nó mang đến. Theo các số liệu của FAO, việc sử dụng phân bón mất cân đối, lạm dụng phân bón vô cơ đã dấn tới hiện tượng đất nông nghiệp đang suy giảm độ phì nhiêu, một số diện tích đã bị thoái hóa nghiêm trọng do xói mòn, rửa trôi, đá ong hóa, chua mặn hóa, trong đó diện tích thoái hóa nặng đã lên tới 2,0 triệu ha. Bên cạnh những tác động xấu đến môi trường thì việc lạm dụng phân bón vô cơ cũng dẫn tới nhiều vấn đề về an toàn thực phẩm như dư lượng kim loại nặng và nitrat trong sản phẩm nông nghiệp. Hiệu suất sử dụng phân bón hiện nay đang rất thấp cũng do việc sử dụng mất cân đối phân bón vô cơ và hữu cơ. Có nghiên cứu đã chỉ ra rằng, năng suất cây trồng và hiệu quả kinh tế cao,ổn định ở những nơi bón phân cân đối tỷ lệ đạm hữu cơ và vô cơ. Bón phân hữu cơ còn làm giảm bớt lượng phân khoáng cần bón. Kết quả nghiên cứu cho thấy nếu bón 10 tấn phân chuồng/ha có thể giảm bớt được 40-50% lượng phân Kali cần bón. Ở một nghiên cứu khác, hiệu quả sử dụng của phân đạm vô cơ trên cây lúa có thể tăng lên 30-40% trên nền bón phân hữu cơ so với nền không bón. Một vấn đề khác trong sử dụng phân bón hữu cơ đó là người dân sử dụng phân bón hữu cơ truyền thống theo kinh nghiệm, thói quen và sử dụng phân bón hữu cơ công nghiệp theo hướng dẫn chủ yếu của người bán hàng và nhãn mác sản phẩm. Có nghĩa là, hiện tại chưa có định hướng, tập huấn bài bản cho người nông dân về tác dụng của phân bón hữu cơ, cách thức phối hợp cân đối giữa phân bón vô cơ và hữu cơ. Người nông dân cũng có rất ít cơ hội được tiếp cận, tìm hiểu về các mô hình sử dụng phân bón hữu cơ cân đối hiệu quả.
II. Vai trò của phân bón hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp; Khái niệm về chất hữu cơ: Dấu hiệu cơ bản làm đất khác đá mẹ là đất có chất hữu cơ. Số lượng và tính chất của chúng tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành đất, quyết định nhiều tính chất: lý, hoá, sinh và độ phì nhiêu của đất. Khái niệm về phân bón hữu cơ: Là loại phân bón được sản xuất từ nguồn nguyên liệu hữu cơ trong nước hoặc nhập khẩu phân bón có các chỉ tiêu chất lượng đạt quy định Quốc Gia. Phân bón hữu cơ chia thành 3 loại (căn cứ theo thành phần hoặc chức năng của thành phần hoặc quá trình sản xuất):
+ Phân bón hữu cơ: thành phần chỉ chứa chất hữu cơ tự nhiên và có chỉ tiêu chất lượng chính đáp ứng quy định tại Thông tư 09/2019/TT-BNNPTNT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng phân bón có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2020.
+ Phân hữu cơ cải tạo đất: là phân bón có tác dụng cải thiện tính chất lý, hóa, sinh học của đất để tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng, phát triển, được sản xuất từ nguyên liệu chính là các chất hữu cơ tự nhiên (không bao gồm các chất hữu cơ tổng hợp) và có chỉ tiêu chất lượng chính đáp ứng quy định tại Thông tư 09/2019/TT-BNNPTNT.
+ Phân bón hữu cơ nhiều thành phần: là phân hữu cơ được sản xuất từ nguyên liệu chính là các chất hữu cơ tự nhiên (không bao gồm các chất hữu cơ tổng hợp) và được phối trộn thêm một hoặc nhiều chất vô cơ, chất sinh học, vi sinh vật có ích, có chỉ tiêu chất lượng chính đáp ứng quy định tại Thông tư 09/2019/TT-BNNPTNT.
2. Vai trò của chất hữu cơ trong đất: Có thể nói chất hữu cơ đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với tất cả quá trình xảy ra trong đất và liên quan chặt chẽ tới tính chất lý, hoá và sinh học của đất, thể hiện ở những điểm sau: Với lý tính đất: Chất hữu cơ có tác dụng cải thiện trạng thái kết cấu đất, các keo mùn gắn các hạt đất với nhau tạo thành những hạt kết tốt, bền vững. Phân hữu cơ có tác dụng làm đất thông thoáng tránh sự tạo váng, tránh sự xói mòn. Cải thiện lý, hóa và sinh học đất, làm đất tơi xốp, thoáng khí, ổn định pH, giữ ẩm cho đất, tăng khả năng chống hạn cho cây trồng…. Tạo điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật hoạt động trong đất, giúp bộ rễ và cây trồng phát triển tốt. Góp phần đẩy mạnh quá trình phân giải các hợp chất vô cơ, hữu cơ thành nguồn dinh dưỡng dễ tiêu N, P, K, trung, vi lượng … để cây trồng hấp thụ qua đó giảm thiểu các tổn thất do bay hơi, rửa trôi gây ra. Với hoá tính đất: Chất hữu cơ xúc tiến các phản ứng hoá học, cải thiện điều kiện oxy hoá, gắn liền với sự di động và kết tủa của các nguyên tố vô cơ trong đất. Chất hữu cơ làm tăng khả năng hấp phụ của đất, giữ được các chất dinh dưỡng, đồng thời làm tăng tính đệm của đất. Với đặc tính sinh học đất: Trong quá trình phân giải, phân hữu cơ cung cấp thêm thức ăn cho vi sinh vật, khoáng và hữu cơ nên khi vùi phân hữu cơ vào đất tập đoàn vi sinh vật trong đất phát triển nhanh, giun đất cũng phát triển mạnh. Chất hữu cơ đất (kể cả các chất mùn và ngoài mùn) đều chứa một lượng khá lớn các nguyên tố dinh dưỡng: N, P, K, S, Ca, Mg và các nguyên tố vi lượng, trong đó đặc biệt là N. Những nguyên tố này được giữ một thời gian dài trong các hợp chất hữu cơ, vì vậy chất hữu cơ đất vừa cung cấp thức ăn thường xuyên vừa là kho dự trữ dinh dưỡng lâu dài của cây trồng cũng như vi sinh vật đất.....
Hiện có một số loại phân bón hữu cơ được chế biến truyền thống như phân chuồng, phân gia cầm, phân bò …. hoặc các loại phân bón hữu cơ chế biến như phân hữu cơ sinh học, phân hữu cơ khoáng, phân hữu cơ vi sinh, nhập khẩu phân bón (phân bón cao cấp), Ngoài những ưu điểm thì phân bón hữu cơ truyền thống cũng có nhược điểm như: hàm lượng chất dinh dưỡng thấp nên phải bón lượng lớn, đòi hỏi chi phí lớn để vận chuyển và nếu không chế biến kỹ có thể mang đến một số nấm bệnh cho cây trồng, nhất là khi phân bón hữu cơ được chế biến từ nguyên liệu là chất thải sinh hoạt và công nghiệp. Các vi sinh vật gây hại có trong phân bón gồm: E.coli, Salmonella, Coliform là những loại gây nên các bệnh đường ruột nguy hiểm hoặc ô nhiễm thứ cấp do có chứa các kim loại nặng hoặc vi sinh vật gây hại quá mức quy định.
3. Biện pháp hạn chế thoái hóa đất
Trước tình hình thoái hóa đất như trên, vấn đề đặt ra là phải sử dụng đất hợp lý, duy trì, bảo vệ và cải thiện hàm lượng hữu cơ đất là rất cần thiết nhất là trong điều kiện nước ta hiện nay chất hữu cơ và mùn dễ bị khoáng hóa và rửa trôi khỏi đất.
– Biện pháp sinh học: Biện pháp này giữ vị trí rất quan trọng.
+ Biện pháp thường xuyên và có hiệu lực nhất hiện nay là tăng cường sử dụng các loại phân bón có chứa hữu cơ. Trồng cây phân xanh như bèo dâu, điền thanh, các loại muồng …
– Bón vôi hoặc chất điều hòa pH đất kết hợp với bón phân hữu cơ có tác dụng điều hòa phản ứng đất tạo điều kiện cho vi sinh vật đất hoạt động mạnh. Biện pháp canh tác: Thực hiện các biện pháp như cày bừa, xới xáo, tưới tiêu … hợp lý và kịp thời để đất luôn có độ ẩm thích hợp.
III. Giới thiệu phân hữu cơ vi sinh:
1. Phân hữu cơ vi sinh: Phân hữu cơ vi sinh là loại phân bón được tạo thành bằng cách pha trộn và xử lý các nguyên liệu hữu cơ rồi sau đó cho lên men. Trong thành phần của phân hữu cơ vi sinh sẽ có chứa nhiều hơn 15% chất hữu cơ và tồn tại trong đó từ một hoặc nhiều các loại vi sinh vật vẫn còn sống và sẽ hoạt động khi được bón vào đất với mật độ trung bình là từ ≥ 1×106 CFU/mg mỗi loại. Công dụng của nhóm phân hữu cơ vi sinh này không chỉ dừng lại ở việc cung cấp đủ các yếu tố dinh dưỡng mà nó còn giúp đất chống lại các mầm bệnh cũng như bồi dưỡng, cải tạo, nâng cao độ phì nhiêu, tăng lượng mùn trong đất. Phân ủ hữu cơ vi sinh là phân bón có 2 thành phần chính: chất hữu cơ và vi sinh vật hữu ích:- Chất hữu cơ bao gồm thực vật, động vật bị mùn hóa nhờ vi sinh vật làm cho đất tơi xốp, cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng, góp phần nâng cao chất lượng và năng suất của sản phẩm.- Vi sinh vật là các chủng vi sinh vật sống có ích đã qua tuyển chọn, có hoạt tính sinh học cao, góp phần tạo nên độ phì nhiêu của đất, cung cấp chất dinh dưỡng dưới dạng dễ tiêu (P, N, K...) và các hợp chất sinh học để tăng năng suất cây trồng, chất lượng sản phẩm, thông qua các hoạt động của chúng.
Chế phẩm Vi sinh:
Là (Bộ vi sinh vật có ích) tập hợp nhiều vi sinh vật có khả năng phân giải chất hữu cơ, cố định đạm, sinh chất kháng sinh, sinh chất kích thích sinh trưởng... Một gam chế phẩm chứa trên một tỉ vi sinh vật. Tác dụng:- Phân giải rác thải, phế thải nông nghiệp, mùn hữu cơ, phân bắc phân chuồng làm phân hữu cơ vi sinh.- Phân giải nhanh chất thải hữu cơ trong nước thải. Thúc đẩy nhanh quá trình làm sạch nước thải.- Làm giảm tối đa mùi hôi thối của chất thải.- Hạn chế mầm bệnh có hại trong chất thải.
Lượng dùng và cách bảo quản: 1 gói chế phẩm (500g) sử dụng để ủ cho 1 tấn nguyên liệu phân rác. Chế phẩm được để nơi khô ráo và tránh chuột, gián cắn. Nếu sử dụng chưa hết cần phải buộc kỹ và tránh bị ẩm ướt.
V. Quy trình sản xuất phân ủ hữu cơ vi sinh
1. Sơ đồ quy trình sản xuất:
Phối trộn với chế phẩm VS
|
2. Các bước tiến hành
Bước 1. Chuẩn bị nguyên liệu (làm 1 tấn phân):- Nguyên liệu hữu cơ:+ Rơm rạ, thân cây đậu, lục bình, cây phân xanh,..: 500kg,+ Phân chuồng (phân bò, heo, gà, cút,...): 500kg,- Chế phẩm vi sinh: 500g.
Chú ý: Kích thước nguyên liệu càng nhỏ càng tốt. Nguyên liệu như cây ngô nên chặt ngắn khoảng 1 gang tay. - Đối với rơm rạ, rác lá khô nên tưới ẩm trước khi ủ ít nhất nhất 12 giờ.- Với bèo Tây (Bèo Nhật Bản), bèo cái thì cần phơi héo trước khi ủ. Có thể thay phân chuồng bằng bùn bã của các khu chăn nuôi, thực phẩm, mùn hoai. Nếu không có các thành phần trên có thể bổ sung 2kg đạm/tấn phân ủ.Bước 2. Chọn nơi ủ: Ủ ở những nơi thuận tiện cho việc sử dụng, trên nền đất trống hoặc xi măng, khô ráo. Có thể ủ trong nhà kho, chuồng nuôi không còn sử dụng. Diện tích nền khoảng 3m2/1 tấn phân ủ.Bước 3. Cách trộn chế phẩm với nguyên liệu ủ: Để trộn đều chế phẩm cho 1 tấn nguyên liệu ủ ta làm cách sau: Chia đều chế phẩm làm 5 phần và lượng phân rác cũng chia làm 5 phần. Sau đó cho 1 phần chế phẩm vào ôzoa nước khuấy đều. Tiến hành rải 1 phần phân rác mỗi chiều khoảng ba bước chân rồi cào đều, tưới đều chế phẩm lên lớp phân rác đã rải. Nếu khô thì tưới thêm nước, tổng lượng nước khoảng 1-2 ôzoa tùy thuộc vào rác ướt hay khô. Cứ làm từng lớp như thế cho đến khi hoàn thành. Nếu tiến hành ủ lượng phân rác nhiều thì ta rải phân rác thành từng lớp trong luống ủ có chiều rộng khoảng 2m, chiều dài tuỳ theo lượng rác nhiều hay ít và mỗi lớp khoảng 20-25cm (khoảng 1 gang tay) rồi cào đều. Tưới chế phẩm đã hoà vào đều từng lớp, sao cho phân rác ướt đều và nước không bị ngấm chảy ra xung quanh đống ủ (độ ẩm đạt khoảng 45-50%). Tiến hành làm từng lớp như thế cho đến khi chiều cao của đống ủ khoảng 1,2-1,5m. Bước 4. Che đậy đống phân ủ: Sau khi ủ xong, ta che đậy đống ủ bằng bạt, hoặc nilon. Để đảm bảo tốt hơn và tránh ánh sáng chiếu trực tiếp đống ủ nên che thêm tấm che bằng lá hoặc mái lợp. Vào mùa đông, cần phải che đậy kỹ để nhiệt độ đống ủ được duy trì ở mức 40-500C. Bước 5. Đảo trộn phân và bảo quản:Sau khi ủ vài ngày nhiệt độ đống ủ tăng lên cao khoảng 40-50oC. Nhiệt độ cao làm cho nguyên liệu khô và không khí cần cho hoạt động của vi sinh vật cũng ít dần. Vì vậy, cứ khoảng 7-10 ngày tiến hành đảo trộn và nếu nguyên liệu khô thì bổ sung nước.